Quản lý tổng hợp biển và đại dương - trụ cột chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển

15:28 14/08/2025

Quản lý tổng hợp biển và đại dương là trụ cột chiến lược để khai thác bền vững tiềm năng, bảo vệ môi trường, khẳng định vị thế quốc gia biển có trách nhiệm, góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển vào năm 2030.

Đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh thách thức toàn cầu

Chiều 13/8, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn cho biết, đại dương đang đối mặt với hàng loạt thách thức mang tính xuyên biên giới, vượt ngoài khả năng kiểm soát của bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào, như biến đổi khí hậu, ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học và căng thẳng địa chính trị. Những vấn đề này đòi hỏi cơ chế quản lý tổng hợp, đồng bộ, dựa trên tri thức khoa học.

Việt Nam, với vị thế địa chính trị đặc biệt, đã và đang chủ động hội nhập quốc tế, khẳng định vai trò tích cực và trách nhiệm trong quản trị đại dương toàn cầu. Tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba tại Pháp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: phát triển kinh tế biển phải dựa trên khoa học – công nghệ, gắn bảo vệ môi trường và hợp tác giữ vững hòa bình, ổn định trên biển.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khung thể chế cơ bản được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển bền vững kinh tế biển. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 139/2024/QH15 về Quy hoạch không gian biển quốc gia; Nghị quyết số 48/NQ-CP về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo… đều nhấn mạnh phương thức quản lý tổng hợp, tránh chồng chéo, hướng tới phối hợp hiệu quả giữa các ngành, địa phương và Trung ương.

Tuy vậy, thực tiễn triển khai vẫn còn tồn tại như chồng lấn quy hoạch, thiếu thông tin đồng bộ, phân mảnh trong quản lý. Việc mở rộng phạm vi quản lý sau khi sáp nhập các tỉnh ven biển theo Nghị quyết số 18-NQ/TW tạo cơ hội liên kết vùng, song cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về năng lực quản trị hiện đại và chia sẻ dữ liệu thống nhất.

Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn trình bày tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030.

4 định hướng trọng tâm

Theo ông Toàn, trong bối cảnh mới, hướng tới mốc 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc biển mạnh, với vai trò là cơ quan tham mưu quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, Đảng bộ Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã xác định 4 định hướng tham mưu trọng tâm. 

Thứ nhất, hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý tổng hợp biển.

Thứ hai, củng cố cơ chế chỉ đạo và điều phối thống nhất, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp chiến lược và hỗ trợ năng lực quản lý biển đột phá cho các địa phương ven biển.

Thứ ba, đẩy mạnh phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số biển, hướng tới hình thành “phương thức sản xuất số” mới, nâng cao năng lực tự chủ công nghệ biển và tạo ra các giá trị kinh tế đột phá. 

Thứ tư, nâng tầm hội nhập quốc tế theo hướng đồng kiến tạo và dẫn dắt.

Quản lý tổng hợp biển và đại dương là trụ cột chiến lược để khai thác bền vững tiềm năng, bảo vệ môi trường, khẳng định vị thế quốc gia biển

Để hiện thực hóa tầm nhìn và những định hướng này, Đảng bộ Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đề xuất, kiến nghị Đảng ủy Chính phủ quan tâm, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện toàn diện khung pháp lý, thể chế, quy hoạch quản lý tổng hợp về biển, đảo; luật hoá các điều ước quốc tế như UNCLOS 1982, Hiệp định BBNJ, và thể chế hóa các định hướng của Đảng để tạo thành hệ thống pháp luật minh bạch, thống nhất và dựa trên bằng chứng khoa học.

Đồng thời, nâng cao vai trò điều phối và năng lực quản trị liên ngành, liên vùng, liên cấp trong triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Nâng cao quyền hạn và nguồn lực tương xứng cho Văn phòng cơ quan thường trực Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển, để thực sự trở thành trung tâm điều phối thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phương.

Bên cạnh đó, thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực biển và đại dương, chuyển mạnh từ vai trò “tham gia” sang “kiến tạo và dẫn dắt” các sáng kiến toàn cầu về bảo tồn và phát triển bền vững biển. Tham gia sâu vào các công ước, cơ chế hợp tác đa phương cần được gắn liền với nâng cao năng lực đàm phán, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. 

Đặc biệt, ưu tiên nguồn lực tài chính đột phá để đầu tư phát triển khoa học, công nghệ biển, điều tra cơ bản, đặc biệt nghiên cứu ở các vùng biển sâu, trong đó tập trung xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống quản trị, giám sát biển đảo với nền tảng dữ liệu không gian biển quốc gia số hóa, tạo tiền đề cho phát triển các mô hình kinh tế biển mới dựa trên dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.

Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu đầu tư công, khuyến khích đầu tư tư nhân, tạo cơ chế ưu đãi cho các nhà đầu tư trong các dự án xanh, bền vững.

Đảng ủy Cục cũng kiến nghị, đề xuất với Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường bổ nhiệm Đặc phái viên hoặc chức danh ngoại giao chuyên trách về biển và đại dương; xây dựng đề án quốc gia bảo tồn đa dạng sinh học biển gắn kinh tế biển xanh; thúc đẩy công cụ tài chính xanh, trái phiếu xanh; khuyến khích địa phương ven biển áp dụng mô hình quản lý tổng hợp phù hợp, minh bạch.

Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn nhấn mạnh, trước giai đoạn phát triển mới, khoa học, công nghệ là đòn bẩy, hội nhập quốc tế là kênh truyền sức mạnh thời đại. Với tinh thần đổi mới, trách nhiệm và khát vọng cống hiến, toàn thể cán bộ, đảng viên Đảng bộ Cục Biển và Hải đảo Việt Nam quyết tâm hoàn thành tốt công việc được giao, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển vào năm 2030, xây dựng đất nước phồn vinh, hùng cường, có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế.

Trường Giang