Phất cao ngọn cờ Tháng Tám

19:29 30/08/2025

Cờ cách mạng đã phất cao trong những ngày Tháng Tám lịch sử; Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã vang lên trước toàn thể thế giới.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và đi đến quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh phục chế.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và đi đến quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh phục chế.

Sau quá trình tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam, khi các điều kiện thành lập đảng chín muồi, tại Hương Cảng (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và đi đến quyết định thành lập một chính Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kể từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc nước ta được đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng chân chính, có đường lối, phương thức, mục tiêu rõ ràng, huy động được sức mạnh, niềm tin của quần chúng nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam trải qua 3 cuộc diễn tập chính, bao gồm: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô-viết Nghệ Tĩnh, phong trào vận động dân chủ, dân sinh 1936 - 1939 và cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 - bước chuẩn bị mang tính quyết định cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Những ngày Tháng Tám sục sôi tinh thần cách mạng

Ngay sau sự kiện phát-xít Nhật thực hiện cuộc đảo chính, hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, từ đó phong trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Tháng 8/1945, Nhật Hoàng ký hiệp ước đầu hàng vô điều kiện Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh. Trong khi đó, tại Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim bộc lộ rõ sự rệu rã, ô hợp, không còn đủ sức nắm quyền.

Tái hiện không khí những Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ảnh: Báo Nhân dân.

Tái hiện không khí những Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ảnh: Báo Nhân dân.

Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) diễn ra trong hai ngày 14 và 15/8/1945 đã thống nhất thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài “Tiến quân ca” làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, lập ra Chính phủ Lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Tin tức về việc Nhật đầu hàng nhanh chóng lan truyền trong khắp nhân dân, chớp thời cơ đó, Việt Minh nhanh chóng tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang, lôi cuốn hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên giành chính quyền. Nghiên cứu và phân tích tình hình, các điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”; bởi nếu chậm trễ thì các nguy cơ cản trở xuất hiện, tình hình sẽ diễn biến rất phức tạp, khó lường.

Ngày 13/8/1945, Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố. Cũng thời điểm lịch sử đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào. Bức thư nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành chính quyền thành công. Đây là bốn tỉnh giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất.

Tại Hà Nội, ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành xuống đường biểu dương lực lượng dưới sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt chiếm Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh,... Tối cùng ngày, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Trên cả nước, đến ngày 30/8/1945, nhân dân hầu hết địa phương, đặc biệt tại các thành phố lớn (Sài Gòn, Huế,…) tiến hành chiếm các công sở, giành chính quyền. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị, trao ấn kiếm cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xóa bỏ chế độ quân chủ Việt Nam.

Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một Đảng vừa mới 15 tuổi đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đứng ra quy tụ, tổ chức nhân dân kháng chiến. Dưới ngọn cờ của Đảng, nhân dân ta đã nhất tề vùng lên giành chính quyền trong 15 ngày (từ ngày 13 đến ngày 28/8/1945), chấm dứt sự thống trị gần trăm năm của thực dân và hàng nghìn năm của phong kiến, thiết lập nền dân chủ cộng hòa. Cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân ra đời

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hòa. 

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hòa. 

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”, chúng ta tự hào về năng lực lãnh đạo của Đảng ta, một đảng ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến nhưng đã trở thành đảng lãnh đạo chính quyền và toàn xã hội, thực sự là một tổ chức chính trị tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, chiến đấu quên mình vì lợi ích thiết tha nhất, thiêng liêng nhất của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng của chúng ta đã thực hiện được một kỳ tích mang tầm thời đại: Giải phóng dân tộc; Giải phóng xã hội; Giải phóng con người.

Cách mạng Tháng Tám đã nêu cao tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, khi mà chúng ta phải đối diện với thực dân Pháp - một trong số các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển bậc nhất vào thế kỷ XIX, XX; phải đương đầu với chủ nghĩa phát-xít và lực lượng đồng minh, những thế lực đang chi phối đời sống chính trị quốc tế lúc đó. Lần đầu tiên một dân tộc đã tự lực tự cường, đứng lên làm cách mạng để giành lấy những quyền dân tộc cơ bản nhất của mình, mà không phải do ai ban cho, từ trong tay hệ thống thuộc địa lâu đời của chủ nghĩa thực dân Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thành công khi khơi dậy được nguồn lực mạnh mẽ nhất của dân tộc - chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và lợi ích của các giai tầng, của mỗi con người là thống nhất với lợi ích dân tộc. Để từ đó tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam tạo thành một lực lượng cách mạng vô cùng to lớn làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thiết lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Cách mạng Tháng Tám đã thay đổi số phận của cả dân tộc Việt Nam khi đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.

Cuộc cách mạng đã chứng minh tính đúng đắn của những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng thuộc địa, về tính chủ động của cách mạng thuộc địa, về cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới mà Người đã nghiên cứu, đã chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ XX. Với Người, một cuộc cách mạng thành công, cách mạng “đến nơi”, nghĩa là: “cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều” và dân chúng phải “được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật...”.

Cách mạng Tháng Tám có quyền đi vào lịch sử của phong trào cách mạng thế giới, như một trong những mẫu mực tuyệt vời về nghệ thuật cách mạng và sáng tạo cách mạng của quần chúng nhân dân. Nhiều nhà sử học, nhà báo, nhà văn đã viết những tác phẩm lớn nghiên cứu về Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam, dành cho những lời ngợi ca tốt đẹp nhất.

Chính vì vậy, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, dù gặp muôn vàn khó khăn thử thách, song Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã kiên quyết thực hiện tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xúc tiến tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.

Khác với các hình thức nhà nước của phong kiến, thực dân đã từng tồn tại ở Việt Nam, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, “tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Trong nhà nước đó, cán bộ, công chức là “công bộc”, đầy tớ cho nhân dân. Không chỉ phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành, Đảng và Nhà nước đó còn phải yêu dân, kính dân và quán triệt yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đề nghị: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết”.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận người nô lệ, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ, tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình. Đây là một cuộc đổi đời chưa từng có trong lịch sử đối với mỗi người dân Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã hoàn thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần. Dưới chế độ mới sau Cách mạng Tháng Tám 1945, người dân của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được hưởng những quyền tự do dân chủ đầu tiên như quyền tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc, quyền bầu cử và ứng cử, quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, quyền tư hữu tài sản, quyền học tập, quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài… Những quyền bình đẳng, dân chủ này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều là những điều chưa từng có trong các mối quan hệ xã hội và kinh tế của xã hội phong kiến Việt Nam trước đó.

Kiên định tinh thần ngọn cờ Tháng Tám trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng là “một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”, trong đó “những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được mới chỉ là bước đầu trên đường đi muôn dặm”.

Ngọn cờ Tháng Tám luôn rực rỡ trong hành trình của dân tộc. Ảnh: BTC chương trình Từ mùa thu cách mạng.

Ngọn cờ Tháng Tám luôn rực rỡ trong hành trình của dân tộc. Ảnh: BTC chương trình Từ mùa thu cách mạng.

Và là tình yêu, là niềm tự hào trong tim mỗi công dân Việt Nam. Ảnh: BTC chương trình Từ mùa thu cách mạng.

Và là tình yêu, là niềm tự hào trong tim mỗi công dân Việt Nam. Ảnh: BTC chương trình Từ mùa thu cách mạng.

Từ bước ngoặt vĩ đại mà cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa thu năm 1945 tạo nên đã khơi nguồn, bồi đắp sức mạnh cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta vững bước trên chặng đường mới, viết tiếp những trang sử hào hùng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế và đột phá phát triển ngày hôm nay.

Đó cũng chính là cơ sở để Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) khẳng định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn mới là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên cường đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.

Sau 80 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được; giành thắng lợi vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2025); nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ; đạt nhiều thành tựu về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới. Ảnh: Báo Nhân dân.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới. Ảnh: Báo Nhân dân.

Phất cao cờ hồng Tháng Tám, phát huy thành quả, kinh nghiệm trong 80 năm qua, Đảng, ta, Nhà nước ta, nhân dân ta, thế hệ hôm nay và mai sau đời đời khắc ghi công ơn trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cha anh, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng; để đất nước ta mãi độc lập, tự do, để nhân dân ta ngày càng ấm no hạnh phúc như ước muốn tột bậc của Bác Hồ kính yêu.

PGS,TS, Thiếu tướng Nguyễn Bá Dương