Giai đoạn 2021–2025, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong công tác giảm nghèo đa chiều. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 5,2% năm 2021 xuống còn 1,93% năm 2024, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Hàng triệu hộ nghèo được thụ hưởng các chính sách y tế, giáo dục, tín dụng chính sách, sinh kế và nhà ở, góp phần cải thiện rõ rệt đời sống. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2026–2030, bối cảnh phát triển mới đặt ra nhiều thách thức: không chỉ giảm nghèo về số lượng, mà còn hướng tới giảm nghèo bao trùm, thích ứng với biến đổi khí hậu, đô thị hóa và chuyển đổi số.
Thách thức từ biến đổi khí hậu và thiên tai
Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Các vùng dễ bị tổn thương cũng là nơi tập trung nhiều hộ nghèo:
- Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với xâm nhập mặn, sụt lún, thiếu nước ngọt, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế trồng lúa, nuôi trồng thủy sản.
- Miền Trung thường xuyên chịu bão lũ, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, đẩy nhiều hộ nghèo trở lại tình trạng khó khăn.
- Miền núi phía Bắc hứng chịu lũ quét, sạt lở đất, làm mất đất sản xuất và gia tăng rủi ro cho các hộ nghèo.
Những thách thức này khiến nhiều hộ dù đã được hỗ trợ vẫn dễ rơi vào vòng nghèo đói mới.
Khoảng cách vùng miền và nhóm yếu thế
Đến năm 2025, vẫn còn hơn 1.700 xã chưa đạt chuẩn Nông thôn mới, phần lớn tập trung ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Thực tế cho thấy: Hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm tới 55% tổng số hộ nghèo cả nước, trong khi tỷ lệ dân số chỉ khoảng 15%. Các nhóm yếu thế khác như người cao tuổi, phụ nữ đơn thân, lao động phi chính thức có nguy cơ tái nghèo cao do thiếu việc làm bền vững và hạn chế tiếp cận dịch vụ xã hội.
Khoảng cách phát triển vùng miền, cùng sự bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ cơ bản, vẫn là rào cản lớn đối với mục tiêu giảm nghèo bao trùm.
Giảm nghèo trong bối cảnh chuyển đổi số và đô thị hóa
Chuyển đổi số mang đến cơ hội nhưng cũng làm gia tăng khoảng cách cho hộ nghèo:
- Chỉ khoảng 40% hộ nghèo hiện có điều kiện tiếp cận dịch vụ công trực tuyến và thương mại điện tử.
- Trình độ kỹ năng số còn hạn chế khiến nhiều hộ nghèo khó tham gia nền kinh tế số.
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng cũng làm nảy sinh tình trạng “nghèo đô thị”:
- Nhiều lao động nông thôn di cư lên thành phố nhưng không tìm được việc làm bền vững.
- Các khu nhà trọ tạm bợ của lao động di cư tiềm ẩn nguy cơ nghèo đa chiều, từ thiếu nhà ở kiên cố, thiếu an sinh y tế đến thiếu cơ hội học tập cho con cái.
Định hướng 2026–2030: Giảm nghèo bao trùm và thích ứng
Để ứng phó với các thách thức mới, Việt Nam đã xác định những định hướng trọng tâm cho giai đoạn tới:
- Bao trùm: Chính sách giảm nghèo phải tiếp cận đa chiều, bảo đảm không nhóm nào bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm dễ bị tổn thương.
- Thích ứng: Giảm nghèo phải gắn với ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển sinh kế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.
- Hội nhập: Áp dụng chuẩn nghèo tiệm cận quốc tế, tham khảo kinh nghiệm các nước ASEAN và toàn cầu, bảo đảm minh bạch và khả năng so sánh quốc tế.
- Đồng hành: Tăng cường vai trò của doanh nghiệp, cộng đồng và hợp tác quốc tế trong hỗ trợ sinh kế, xây dựng hạ tầng và huy động nguồn lực.
Giảm nghèo trong giai đoạn 2026-2030 không chỉ là “giảm số hộ nghèo” mà là nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện cho người dân, bảo đảm an sinh xã hội, công bằng và hội nhập. Đó là hành trình khó khăn khi đất nước đứng trước tác động của biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và đô thị hóa, nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam khẳng định quyết tâm chính trị, sức mạnh đoàn kết toàn dân. Với nền tảng thành tựu giai đoạn 2021-2025, cùng sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và đối tác quốc tế, mục tiêu giảm nghèo bao trùm, thích ứng và bền vững đến năm 2030 hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Đây cũng là bước tiến quan trọng để Việt Nam tiến gần hơn tới các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu (SDGs), khẳng định vị thế một quốc gia nhân văn, không để ai bị bỏ lại phía sau. |
CTTĐT