Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh” do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi và Báo Nông nghiệp và Môi trường, phối hợp tổ chức vào ngày 16/10 tại TP.HCM, đã đặt ra nhiều vấn đề về việc làm sao nâng cao được tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch trong thời gian tới.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, nhấn mạnh: “Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp xanh - sạch - tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh đó, việc bảo đảm cung cấp nước sạch và cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường ở khu vực nông thôn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, phần lớn hoạt động sản xuất nông nghiệp - đặc biệt là trồng trọt, chăn nuôi - đều gắn chặt với tài nguyên nước và môi trường xung quanh. Một môi trường nông thôn sạch sẽ, không ô nhiễm nguồn nước, không tồn tại những điểm nóng về rác thải sinh hoạt hay chất thải nông nghiệp, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng nông thôn mới văn minh, xanh - sạch - đẹp”.
Theo ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến nay, trên toàn quốc có khoảng 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% hộ dân sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung, còn 8% hộ dân được cấp nước từ hệ thống cấp nước hộ gia đình. Công tác nước sạch nông thôn đã góp phần đạt được chỉ tiêu nước sạch trong xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2021-2025.
Cả nước có 18.109 công trình cấp nước tập trung (CNTT), trong đó có khoảng 7.800 công trình có quy mô công suất cấp nước ≥ 50m3/ngày đêm.
Thực hiện “Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, từ nay đến năm 2030, công tác nước sạch nông thôn trên cả nước hướng tới những mục tiêu sau: 80% hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn; 100% đơn vị cấp nước có đủ năng lực; giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu nước sinh hoạt người dân các khu vực khó khăn, ô nhiễm, xâm nhập mặn.
Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho rằng, để đạt những mục tiêu nói trên, trước hết phải tập trung tháo gỡ những "điểm nghẽn" về cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư...
Trên tinh thần đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thiện dự thảo nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, trong đó quy định rõ từ khâu đầu tư, quản lý vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa. Nghị định này được kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập hiện nay, tạo hành lang pháp lý thông suốt để thu hút doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ nước sạch nông thôn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần dành nguồn lực ưu tiên cho các vùng khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo, là những nơi mà doanh nghiệp khó đầu tư vào dịch vụ nước sạch nông thôn do chi phí cao, hiệu quả thấp. Cùng với đó là huy động người dân tham gia đóng góp kinh phí, ngày công hoặc đất đai để hình thành công trình cấp nước tập trung, đặc biệt ở các vùng có điều kiện thuận lợi cho xã hội hóa.
Ông Lương Văn Anh nhấn mạnh "Để 80% hộ nông thôn được sử dụng nước đúng quy chuẩn đến 2030, cần sự tham gia đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, trong đó trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào lĩnh vực cấp nước nông thôn".
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, cho rằng, đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Việc phát triển kinh tế nước phải gắn với tư duy quản lý hiện đại, chuyển từ hành chính thụ động sang quản lý theo cơ chế thị trường. Điều này đòi hỏi hoàn thiện thể chế, chính sách và tính đúng, tính đủ giá nước, tương tự như biểu giá điện. Khi giá nước được phản ánh sát giá trị thật, mới có thể thu hút đầu tư tư nhân và khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Ngoài việc đẩy mạnh thu hút nguồn lực vào xây dựng các công trình cấp nước tập trung, cũng cần quan tâm tới cấp nước hộ gia đình. PGS.TS Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, cho biết, với đặc thù sinh sống phân tán ở nhiều địa bàn thuộc ĐBSCL, hiện có khoảng 53.500 hộ dân nông thôn tại khu vực này đang không có khả năng tiếp cận cấp nước tập trung. Vì vậy cần xem xét các giải pháp như dự trữ nước tại hộ gia đình hoặc các phương án thay thế khác.
Vĩnh Long là một trong những địa phương đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, số hóa trong quản lý công trình cấp nước nông thôn. Ông Châu Văn Tùng, Phó Giám đốc Trung tâm Nước sạch nông thôn Vĩnh Long, cho biết, sau sáp nhập tỉnh, Trung tâm hiện quản lý vận hành 237 công trình cấp nước tập trung; với tổng công suất khai thác 237.400 m3/ngày đêm, cấp nước sạch cho khoảng 482.236 khách hàng.
Với vai trò là đơn vị quản lý khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn trên địa bàn, Trung tâm Nước sạch nông thôn Vĩnh Long đã và đang ứng dụng các giải pháp chuyển đổi số, đạt được những kết quả quan trọng bước đầu, tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Tại một số trạm cấp nước công suất lớn, bước đầu Trung tâm Nước sạch nông thôn Vĩnh Long đã đầu tư hệ thống giám sát, quan trắc chất lượng nước, điều khiển tự động hệ thống bơm điện, ứng dụng một số công nghệ hiện đại và tự động hóa.
Đặc biệt, nhằm tối ưu hóa công tác quản lý và xử lý thông tin, Trung tâm Nước sạch nông thôn Vĩnh Long đã triển khai thực hiện một số ứng dụng, giải pháp về số hóa.
Chẳng hạn, Trung tâm đã tiến hành giám sát áp lực mạng lưới cấp nước theo thời gian thực bằng IoT. Trong giải pháp này, năng lượng tái tạo đã được sử dụng để vận hành hệ thống, giúp tăng tính chủ động kiểm soát áp lực mạng, điều tiết bổ sung áp giữa các tuyến, cảnh báo tụt áp góp phần kiểm soát thất thoát nước.
Công tác giám sát chất lượng nước theo thời gian thực và giảm ô nhiễm cũng được Trung tâm sử dụng công nghệ IoT, thông số độ đục NTU được hiển thị trên màn hình LED.
Bên cạnh đó, Trung tâm Nước sạch nông thôn Vĩnh Long đã sử dụng phần mềm trong quản lý khách hàng (như phần mềm Citywork, phần mềm Iwater). Các phần mềm này dùng để thống kê, tổng hợp khách hàng, truy xuất dữ liệu về lượng nước tiêu thụ, nước sản xuất; quản lý khách hàng theo tuyến, lộ trình ghi thu...
Ông Châu Văn Tùng nhấn mạnh "Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý công trình cấp nước sạch nông thôn là hành trình đổi mới tư duy, tối ưu hóa vận hành và nâng cao chất lượng dịch vụ, với mục tiêu cao nhất là đảm bảo chất lượng nguồn nước và phục vụ người dân ngày một tốt hơn".
Thanh Sơn