Việt Nam dự kiến giảm trực tiếp hơn 11 triệu tấn CO₂ tương đương từ hoạt động tiêu thụ các chất HFC, góp phần vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Hiệp ước quốc tế đóng góp lớn nhất cho khí hậu
40 năm trước, các quốc gia trên thế giới đã ký kết Công ước Vienna nhằm bảo vệ tầng ozone trước nguy cơ bị thủng và bảo vệ con người cũng như hành tinh khỏi bức xạ tử ngoại (UV) có hại. Trên nền tảng đó, Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone đã được thông qua và triển khai thành công. Các bằng chứng khoa học cho thấy, lỗ thủng tầng ozone đang phục hồi dần nhờ lộ trình loại bỏ các nhóm chất chính: các chất CFC và Halon, Methyl Bromide, các chất HCFC, các chất HFC. Đây đều là những loại chất được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực sản xuất điều hòa không khí, thiết bị làm lạnh và sản xuất xốp cách nhiệt, kiểm dịch nông nghiệp, dập cháy…
Để tăng cường thực hiện Nghị định thư Montreal, các nước thành viên đã thông qua Bản sửa đổi, bổ sung Kigali vào năm 2016. Mục tiêu nhằm giảm dần sản xuất và tiêu thụ các chất HFC – loại môi chất lạnh thế hệ thứ ba vốn được sử dụng thay thế HCFC, nhưng lại gây hiệu ứng nhà kính. Hiện nay, gần 80% các chất HFC đang được sử dụng trong lĩnh vực làm mát (điều hoà không khí, thiết bị lạnh, hệ thống điều hoà trung tâm, kho bảo quản lạnh…). Các quốc gia sẽ cắt giảm dần hoạt động sản xuất và tiêu thụ HFC, ước tính sẽ giúp tránh mức tăng nhiệt toàn cầu thêm 0,5°C vào cuối thế kỉ.
Ông Viraj Vithoontien, Chuyên gia cao cấp, Ngân hàng Thế giới (WB)Theo ông Viraj Vithoontien, Chuyên gia cao cấp, Ngân hàng Thế giới (WB), Nghị định thư Montreal được đánh giá là hiệp ước có đóng góp lớn nhất cho khí hậu, do các chất làm suy giảm tầng ozone có chỉ số tiềm năng gây nóng lên toàn cầu (GWP) cao gấp hàng trăm tới hàng nghìn lần khí CO2.
Kết quả nỗ lực của thế giới đã giảm phát thải tương đương 135 tỷ tấn CO₂ từ năm 1990 đến nay, đóng góp khoảng 25% vào mục tiêu toàn cầu hạn chế mức tăng nhiệt độ trái Đất.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến nhiệt độ nhiều khu vực tăng lên, làm mát và điều hòa không khí đã thành nhu cầu thiết yếu với cộng đồng. Xã hội càng hiện đại, mức sống con người tăng thì nhu cầu làm mát càng lớn, kéo theo nhu cầu thiết bị lạnh và điều hòa không khí tăng theo. Ngoài phát thải khí nhà kính từ môi chất làm lạnh, lĩnh vực này còn bao gồm phát thải từ lượng điện năng tiêu thụ. Nói cách khác, con người càng làm mát thì Trái đất sẽ càng nóng lên.
Năm 2023, Cam kết làm mát toàn cầu được khởi xướng tại Hội nghị COP28. Mục tiêu là lĩnh vực làm mát toàn cầu phải giảm ít nhất 68% phát thải khí nhà kính vào năm 2050 so với năm 2022, nhằm phù hợp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng toàn cầu bằng “0”.
Việt Nam đồng hành với nỗ lực toàn cầu
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã chung tay với cộng đồng quốc tế nỗ lực triển khai các hoạt động bảo vệ tầng ozone, kiểm soát và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone, chất gây hiệu ứng nhà kính. Theo ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường): Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã sớm loại trừ hoàn toàn CFC, Halon, CTC từ năm 2010; loại trừ HCFC-141b nguyên chất trong sản xuất xốp từ năm 2015; chỉ cho phép sử dụng methyl bromide cho mục đích kiểm dịch nông nghiệp. Nội dung bảo vệ tầng ozone đã được nội luật hóa trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật như Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, các thông tư và quy chuẩn kỹ thuật liên quan.
Việc bảo vệ tầng ozone trước nguy cơ bị thủng cũng chính là bảo vệ con người khỏi bức xạ tử ngoại có hại. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/2025/NĐ-CP nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và các bên liên quan trong quá trình thực hiện. Song song với đó, Việt Nam cũng đã ban hành và áp dụng nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong sản xuất sử dụng các chất được kiểm soát.
Theo thống kê của Ban Thư ký Ozone quốc tế, từ khi Việt Nam tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal đến tháng 8/2025 đã đóng góp ngăn ngừa phát thải 240 triệu tấn CO₂ tương đương. “Đây là kết quả ấn tượng không chỉ đối với công tác bảo vệ tầng ozone mà còn góp phần thiết thực vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu”, ông Cường nhấn mạnh.
Trong giai đoạn tới, thực hiện Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone và các chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát giai đoạn 2024-2045, Việt Nam dự kiến loại bỏ hoàn toàn HCFC, và giảm trực tiếp hơn 11 triệu tấn CO₂ tương đương từ hoạt động tiêu thụ các chất HFC.
Với HCFC, từ năm 2025, Việt Nam đã áp dụng hạn ngạch nhập khẩu 1.300 tấn/năm và sẽ duy trì đến hết năm 2029, tương ứng mức giảm 67,5%. Giai đoạn từ 2030-2039, hạn ngạch nhập khẩu trung bình chỉ còn 100 tấn/năm và tiến tới loại trừ hoàn toàn HCFC từ năm 2040.
Với chất HFC, hạn ngạch nhập khẩu đang giữ ở mức cơ sở giai đoạn 2024-2028, với hạn ngạch nhập khẩu tương đương lượng phát thải 13,9 triệu tấn CO2 (CO2tđ), sau đó giảm dần và đến 2045, lượng nhập khẩu không vượt 2,8 triệu tấn CO2tđ. Riêng Methyl Bromide hạn chế nhập khẩu, chỉ phục vụ khử trùng và kiểm dịch hàng hóa. Mức giảm loại trừ 10% lượng tiêu thụ vào năm 2029 cho đến năm 2034, tiến tới loại trừ 80% lượng tiêu thụ các chất HFC vào năm 2045.
Những kết quả đạt được trong giai đoạn trước chính là nền tảng quan trọng để Việt Nam tiếp tục lộ trình, khẳng định cam kết mạnh mẽ đồng hành cùng cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Thúc đẩy xây dựng các dự án giảm phát thải
Cục trưởng Tăng Thế Cường cho biết: Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ triển khai Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC giai đoạn 3, song song với giảm phát thải HFC theo lộ trình đã định. Việt Nam cũng đang xây dựng Chương trình làm mát bền vững nhằm định hướng dài hạn cho quá trình chuyển đổi xanh trong lĩnh vực làm mát. Trong quá trình này, Việt Nam tiếp tục thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế đã tham gia, bao gồm Công ước Vienna, Nghị định thư Montreal, Liên minh Tăng cường hiệu quả làm mát – UNEP và Cam kết làm mát toàn cầu.
Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chia sẻ về những công việc cần triển khai trong thời gian tới. Cùng với huy động sự hỗ trợ của quốc tế, thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã chủ động đầu tư đổi mới công nghệ để loại trừ các chất bị kiểm soát. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn có lợi thế về công nghệ và kinh nghiệm, góp phần thúc đẩy chuyển đổi nhanh hơn. Các cơ quan quản lý sẽ tiếp tục dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan, trong đó bao gồm những nội dung về quản lý vòng đời môi chất lạnh.
Cục Biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục hợp tác với các đối tác quốc tế để kết nối hợp tác, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ tiên tiến. Các kết quả giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động chuyển đổi môi chất lạnh, làm mát bền vững hoàn toàn có khả năng đăng ký tạo tín chỉ carbon, hay kết quả giảm phát thải (ITMO) để trao đổi trên thị trường carbon quốc tế. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ hơn từ khu vực tư nhân trong nỗ lực bảo vệ tầng ozone và giảm phát thải khí nhà kính.
Theo ông John Robert Cotton, Phó Giám đốc, Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Đông Nam Á (ETP), cơ quan này đang phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu xây dựng Kế hoạch quốc gia về làm mát bền vững. Trong đó, các giải pháp tập trung vào nâng cao hiệu suất năng lượng của các công nghệ làm mát chủ động và tăng cường quản lý môi chất lạnh. Kế hoạch sẽ hỗ trợ phát triển chuỗi lạnh và thúc đẩy các giải pháp làm mát thụ động, thông qua thiết kế công trình thích ứng khí hậu, giải pháp dựa vào thiên nhiên và quy hoạch đô thị hiệu quả. Điều này sẽ giúp Việt Nam có một chiến lược thống nhất về làm mát bền vững, vừa kết hợp giảm nhẹ phát thải vừa giúp các đô thị tăng cường khả năng chống chịu với tác động từ biến đổi khí hậu.