Sign In

Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050

14:51 28/10/2025

Chọn cỡ chữ A a  

Ngày 17/10, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký ban hành Quyết định số 2307/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, phạm vi quy hoạch gồm toàn bộ địa giới hành chính của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm: thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Vĩnh Long, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và một phần tỉnh Tây Ninh, với diện tích khoảng 4 triệu ha (không bao gồm các đảo).

Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch bao gồm chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu để cấp nước, tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước bền vũng cho dân sinh và các ngành kinh tế; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất một cách linh hoạt; nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, sẵn sàng ứng phó với trường hợp bất lợi nhất; đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường; góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, giữ vũng quốc phòng, an ninh.

Bảo đảm cấp nước chủ động cho sinh hoạt nông thôn và sản xuất nông nghiệp

Bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người; tạo nguồn cấp nước cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao từ các hệ thống công trình thủy lợi. 

Cấp nước chủ động cho khoảng 1,5 - 1,6 triệu ha diện tích đất trồng lúa 2 vụ; 0,65 - 0,75 triệu ha đất trồng lúa vụ 3; 0,21 triệu ha rau màu, hoa, cây cảnh, với mức đảm bảo tưới 85%; 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái với mức bảo đảm tưới 90 - 95%. 

Cấp nước chủ động cho nuôi trồng thủy sản với diện tích khoảng 0,8 triệu ha, trong đó: nuôi thủy sản nước ngọt là 0,13 triệu ha; nuôi thủy sản nước mặn là 0,67 triệu ha; bảo đảm cấp, thoát nước tách rời cho khoảng 0,08 triệu ha nuôi trồng thủy sản tập trung. 

Bảo đảm cấp nước chủ động cho sinh hoạt nông thôn và sản xuất nông nghiệp trong trường hợp hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tương đương đợt hạn hạn năm 2015 - 2016 tại đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2030 giải quyết dứt điểm nước sinh hoạt cho người dân nông thôn vùng ảnh hưởng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. 

Bảo vệ, giảm thiểu ô nhiễm chất lượng nước trong các hệ thống thủy lợi đạt tiêu chuẩn cấp nước cho các hoạt động sử dụng nước. 

Nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới các công trình thủy lợi và hoàn thiện hệ thống kênh, rạch, kết hợp với giao thông nội đồng để chủ động tưới, tiêu, điều tiết nước mặn, ngọt cho một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Chủ động tiêu, thoát nước ra sông trục chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực, đảm bảo tiêu, thoát nước ở vùng thấp trũng phục vụ dân sinh, nông nghiệp với tần suất từ 5% đến 10%; đáp ứng yêu cầu tiêu, thoát cho khu đô thị, công nghiệp; tiêu thoát chủ động cho 1,6 triệu ha diện tích lúa 2 - 3 vụ, 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái, 0,21 triệu ha cây hàng năm, 0,8 triệu ha nuôi trồng thủy sản.

Phòng, chống ngập úng với tần suất 1% cho các đô thị thuộc các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, dành không gian chứa nước từ 7 - 10% diện tích đất phục vụ chống ngập cho các đô thị, kết hợp tạo cảnh quan môi trường, sinh thái.

Chủ động kiểm soát mặn khoảng 1,35 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp theo các điểm khống chế mặn từ 1g/I đến 4g/l trong vùng.

Tầm nhìn đến năm 2050 Bảo đảm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh trong mọi tình huống bất lợi, giảm thiểu thiệt hại cho đời sống và sản xuất của người dân do tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn gây ra ở mức thấp nhất. 

Bảo đảm đầu tư đồng bộ, khép kín các hệ thống công trình thủy lợi từ đầu mối đến nội đồng, nâng dần mức đảm bảo cấp nước, tiểu thoát nước, phòng chống lũ của các hệ thống thủy lợi. 

Hoàn thiện các hệ thống tích trữ, điều hòa, liên kết nguồn nước liên vùng, đảm bảo chủ động kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, hạn chế thiên tai do nước gây ra. 

Giải quyết cơ bản hiện tượng ngập úng do lũ, mưa và triều cường cho các khu vực đô thị bằng các giải pháp thủy lợi.

Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: Minh Anh

Ba vùng sinh thái

Phân vùng quy hoạch gồm 03 vùng: vùng sinh thái ngọt; vùng sinh thái ngọt - lợ và vùng sinh thái mặn với các giải pháp công trình tương ứng.

Trong đó, Vùng sinh thái ngọt: Diện tích 1,9 triệu ha bao gồm một phần của hệ thống thủy lợi Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bắc Vàm Nao, Nam Vàm Nao, vùng Tây sông Hậu, Bắc Vĩnh An, Minh Hạ, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần Thơ, Cà Mau. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, rau màu và thủy sản nước ngọt.

Giải pháp công trình là tập trung giải pháp kiểm soát lũ tràn biên giới từ Campuchia vào Việt Nam tại vùng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; lũ trên dòng chính sông Tiền, sông Hậu; tăng khả năng tiêu, thoát lũ nội đồng.

Tăng cường cấp nước từ sông chính vào các khu vực xa sông gần biển, các khu vực thiếu nước ngọt; xây dựng hệ thống cống lớn đầu kênh, cống cửa sông, cống dưới đê thành các ố bao lớn để chủ động chống ngập úng, tiêu, thoát nước; nạo vét kênh, rạch tăng khả năng cấp, tiêu, thoát nước.

Vùng sinh thái ngọt - lợ: Diện tích 1,35 triệu ha bao gồm các hệ thống thủy lợi Nhật Tào - Tân Trụ, Gò Công, Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Long Phú - Tiếp Nhật, U Minh Thượng, một phần của Tứ Giác Long Xuyên, thuộc một phần các tỉnh, thành phổ: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, tôm - lúa. Các giải pháp thủy lợi cần linh hoạt phục vụ chuyền đổi sản xuất, phù hợp với điều kiện nguồn nước.

Giải pháp công trình là hoàn thiện khép kín hệ thống thủy lợi chủ động cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái.

Hoàn thiện, khép kín các hệ thống thủy lợi, xây dựng các công trình kiểm soát mặn.

Vùng sinh thái mặn: Diện tích 0,75 triệu ha vùng ven biển thuộc một phần các tỉnh/thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này tập trung phục vụ cho nuôi trồng thủy sản với các hình thức: thâm canh, quảng canh cải tiến, tôm - rừng.

Giải pháp công trình là hoàn thiện hệ thống thủy lợi để chủ động điều tiết nguồn nước mặn - ngọt, kiểm soát triều cường; hoàn thiện các ô bao thủy lợi để bảo vệ khu vực sản xuất; tăng cường trữ nước trong hệ thống kênh, rạch; cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các khu vực; đề xuất giải pháp cấp nước mặn từ biển.

Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chăn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển.

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 1g/l phục vụ cấp nước sinh hoạt và cây ăn trái: trên sông Vàm Cỏ Tây tại cống Bắc Đông; trên sông Tiền tại đầu kênh Nguyễn Tấn Thành; trên sông Hàm Luông tại An Hiệp; trên sông Cổ Chiên tại vị trí hợp lưu với sông Măng Thít; trên sông Hậu tại kênh Cái Cui; trên sông Cái Lớn tại cầu Cái Tư. 

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 4g/l ngưỡng mặn tối đa phục vụ sản xuất lúa: trên sông Tiền tại cống Xuân Hòa; trên sông Hàm Luông tại Mỹ Hóa; trên sông Cổ Chiên tại cống Vũng Liêm; trên sông Hậu tại kênh Cái Côn; trên sông Vàm Cỏ Tây tại Tân An.

Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chắn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển...

Chi tiết nội dung Quyết định xem tại đây.

Chi tiết nội dung Báo cáo tổng hợp Quy hoạch xem tại đây.

Chi tiết bản đồ Quy hoạch thủy lợi xem tại đây.

 

CTTĐT

Đánh giá bài viết:
(lượt đánh giá: 0, trung bình: 0)
Từ mương nhỏ đến đại công trình thủy lợi quốc gia

Từ mương nhỏ đến đại công trình thủy lợi quốc gia

Từ những con mương thủ công đầu tiên đến hàng nghìn hồ chứa quy mô châu lục, ngành thủy lợi Việt Nam đã viết nên hành trình 80 năm trị thủy mang tầm kỳ tích.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Công văn về vận hành các hồ chứa trên lưu vực sông Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn - Hà Thanh và Ba

Ngày 6/11, Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có Công văn gửi các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn - Hà Thanh và Ba về việc vận hành các hồ chứa trên các lưu vực sông ứng phó với cơn bão số 13 và mưa lũ lớn trong các ngày tới.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Công văn về vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Sê San, Srêpốk

Ngày 6/11, Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có Công văn gửi các đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa trên lưu vực sông Sê San, Srêpốk về việc vận hành các hồ chứa trên các lưu vực sông ứng phó với cơn bão số 13 và mưa lũ lớn trong các ngày tới.