Việc Quốc hội ban hành Nghị quyết 173/2024/QH15, trong đó cấm toàn diện việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới như thuốc lá điện tử (TLĐT) và thuốc lá nung nóng (TLNN), đã đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý. Một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay chính là sự thiếu rõ ràng trong định danh và phân loại sản phẩm, dẫn đến lúng túng trong thực thi và khó khăn cho cả cơ quan quản lý lẫn doanh nghiệp.
Nhầm lẫn từ tên gọi - Lỗ hổng chính sách
Theo ông Lê Thành Hưng, Trưởng phòng Tiêu chuẩn nông nghiệp thực phẩm, Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ), việc sử dụng khái niệm “thuốc lá mới” hiện nay là chưa thật sự chính xác. Các sản phẩm như TLĐT và TLNN đã xuất hiện trên thế giới từ gần 30 năm trước, nhưng vì còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam, nên thường bị gộp chung và dẫn tới nhầm lẫn, kể cả trong nhận thức của người tiêu dùng lẫn cán bộ thực thi.
Điều đáng nói là sự khác biệt giữa các loại sản phẩm này không chỉ nằm ở tên gọi, mà còn ở cấu tạo, nguyên lý hoạt động và mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường. Thuốc lá điện tử hoạt động bằng cách hóa hơi dung dịch chứa nicotine, không sử dụng lá thuốc thật, trong khi thuốc lá nung nóng sử dụng nguyên liệu thuốc lá đã qua chế biến, được làm nóng nhưng không cháy. Chính sự khác biệt này là cơ sở để xây dựng các chính sách quản lý khác nhau, nhưng nếu không định danh rõ ràng, các chính sách sẽ rất dễ “vênh” nhau.
Ông Lê Thành Hưng, Trưởng phòng Tiêu chuẩn nông nghiệp thực phẩm, Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: Quang Vinh.Sản phẩm “lai”: Thách thức mới trong thực thi pháp luật
Một xu hướng đáng lo ngại là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các sản phẩm “lai”, kết hợp đặc điểm của TLĐT và TLNN. Có thiết bị sử dụng pin điện tử, nhưng nguyên liệu lại là thuốc lá tẩm dung dịch; có sản phẩm mô phỏng hình dạng thuốc lá truyền thống để đánh lừa người tiêu dùng.
Theo ông Hưng, những sản phẩm này nếu không được định danh riêng, sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý nghiêm trọng, làm phát sinh hành vi lách luật, buôn lậu và gây khó khăn trong kiểm tra, xử lý. Ông cho rằng, bên cạnh việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, cần phải cập nhật định nghĩa pháp lý cụ thể về các dòng sản phẩm này, đưa vào Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá sửa đổi để đảm bảo tính hợp pháp và thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Hiện nay, nhiều tổ chức quốc tế như WHO, ISO và WCO đã ban hành các bộ tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn định danh và phương pháp kiểm tra, đo lường chất phát thải của thuốc lá nung nóng. Các nhóm chất được quan tâm bao gồm nicotine, tar và carbon monoxide (CO) – đây là những thông số có thể sử dụng để phân tích mức độ rủi ro sức khỏe.
Việt Nam hoàn toàn có thể kế thừa và nội luật hóa những tiêu chuẩn này để xây dựng Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN). Một hệ thống tiêu chuẩn rõ ràng sẽ là cơ sở giúp cơ quan quản lý, lực lượng hải quan và người tiêu dùng nhận diện đúng sản phẩm, tránh nhầm lẫn và hạn chế gian lận thương mại.
Định danh tên gọi để gỡ nút thắt pháp lý trong quản lý thuốc lá mới. Ảnh: minh họa.Ba nhóm giải pháp để kiểm soát thuốc lá mới
Từ góc độ kỹ thuật và quản lý chính sách, ông Lê Thành Hưng cho rằng ,việc kiểm soát hiệu quả các sản phẩm thuốc lá mới không thể chỉ dừng lại ở các quy định mang tính hành chính, mà cần triển khai đồng bộ ba nhóm giải pháp cốt lõi, vừa đảm bảo tính khoa học, tính pháp lý, vừa nâng cao nhận thức xã hội.
Thứ nhất, cần hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo đó, ông Hưng đề xuất, Bộ Khoa học và Công nghệ cần phối hợp nghiên cứu và sớm ban hành Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) đối với thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng và các sản phẩm lai. Những tiêu chuẩn này sẽ quy định cụ thể về cấu tạo thiết bị, nguyên liệu, quy trình phát thải, hàm lượng chất độc hại... Đây sẽ là căn cứ khoa học để phân loại sản phẩm, từ đó xác định mức độ kiểm soát phù hợp cho từng loại hình.
Cùng với đó, cần rà soát và sửa đổi hệ thống pháp luật.Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá, Luật Đầu tư và các nghị định liên quan như Nghị định 67, 98, 117… cần được rà soát và sửa đổi để phù hợp với bối cảnh thực tế. Đặc biệt, nếu thực hiện cấm, phải định nghĩa rõ sản phẩm bị cấm, nêu rõ cơ sở khoa học của quyết định và thiết lập các điều khoản chuyển tiếp hợp lý, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Cùng với xây dựng luật và tiêu chuẩn, cần cung cấp thông tin đúng, rõ và kịp thời cho người dân, nhất là thanh thiếu niên, nhóm dễ bị ảnh hưởng bởi hình thức hiện đại, bắt mắt của TLĐT c,ũng cần được coi trọng. Truyền thông cần đi trước chính sách, giúp người dân chủ động hiểu đúng, làm đúng, thay vì bị động tiếp cận thông tin sai lệch hoặc mơ hồ.