COP 28 cho thấy các nỗ lực của Việt Nam ứng phó với BĐKH. Những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với BĐKH. Việc đạt được thỏa thuận và công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố JETP với các nước trong và ngoài G7 là cơ hội để Việt Nam tận dụng huy động nguồn lực từ các nước phát triển và khai thông nguồn đầu tư doanh nghiệp thúc đẩy phát triển đất nước, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Hội nghị lần thứ 28 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28), Hội nghị lần thứ 18 các bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP18), Hội nghị lần thứ 5 các bên tham gia Thỏa thuận Paris (CMA5) và các sự kiện có liên quan từ ngày 30/11 đến ngày 12/12/2023 được tổ chức tại Dubai, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (gọi chung là Hội nghị COP28) diễn ra trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) đang tác động ngày càng nghiêm trọng trên toàn cầu, hệ thống khí hậu đang tiến gần đến giới hạn đỏ, trong khi còn có khoảng cách lớn giữa các cam kết đã đưa ra với hành động trên thực tế. Tham dự Hội nghị khoảng 97 nghìn đại biểu từ 198 quốc gia, các cơ quan, tổ chức trực thuộc Liên hợp quốc, tổ chức nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ, cơ quan báo chí, truyền thông...
Đoàn cấp cao của Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu, tháp tùng Thủ tướng Chính phủ gồm có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Văn phòng Trung ương Đảng, Ngoại giao, Quốc phòng, Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Lãnh đạo một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Bình Phước, Bình Định, Phú Yên; Đại sứ Việt Nam tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE); các cơ quan thông tấn báo chí, đại diện một số doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 và chuyển đổi năng lượng công bằng.
Ngày 16/2/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các nội dung liên quan đến Hội nghị COP28.
Nội dung quan trọng nhất đạt được tại COP28 là các bên đã thông qua Quyết định về kết quả Đánh giá nỗ lực toàn cầu (GST) lần thứ nhất, là kết quả tổng hợp nỗ lực thực hiện của tất cả các bên hướng đến thực hiện mục tiêu của Thỏa thuận Paris kể từ năm 2021. Mặc dù đã có tiến bộ trong giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với BĐKH và cung cấp nguồn lực thực hiện, song những nỗ lực toàn cầu hiện nay chưa đủ để đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris. Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của việc cung cấp tài chính, chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực là vấn đề cấp bách thúc đẩy các hành động khí hậu; kêu gọi các bên giảm dần phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí đốt…) là tác nhân chính gây phát thải khí nhà kính.
Về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
Nếu thực hiện đầy đủ các Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của các bên, nhiệt độ toàn cầu vẫn sẽ tăng từ 2,1 đến 2,80C vào cuối thế kỷ so với thời kỳ tiền công nghiệp; kêu gọi các quốc gia cần có đóng góp tích cực vào các nỗ lực toàn cầu theo cách do quốc gia tự quyết định, tính đến điều kiện, lộ trình và cách tiếp cận khác nhau của từng quốc gia: (i) Tăng gấp ba công suất năng lượng tái tạo toàn cầu và tăng gấp đôi hiệu quả sử dụng năng lượng toàn cầu vào năm 2030; (ii) Đẩy nhanh nỗ lực tiến tới giảm dần điện than không sử dụng công nghệ thu giữ các-bon; (iii) Đẩy nhanh nỗ lực toàn cầu hướng tới các hệ thống năng lượng không phát thải, sử dụng nhiên liệu không phát thải hoặc phát thải thấp các-bon muộn nhất là giữa thế kỷ; (iv) Chuyển đổi không sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong hệ thống năng lượng một cách công bằng với lộ trình phù hợp trong thập kỷ này, thúc đẩy hành động khí hậu để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; (v) Đẩy nhanh các công nghệ không phát thải, phát thải thấp như năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân, công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ cácbon, sản xuất hydro các-bon thấp; (vi) Bên cạnh giảm khí CO2, cần đồng thời giảm nhanh các khí nhà kính khác như mê-tan, HFC…; (vii) Giảm nhanh phát thải từ vận tải đường bộ thông qua phát triển cơ sở hạ tầng và triển khai nhanh chóng các phương tiện không phát thải và phát thải thấp; (viii) Sớm xóa bỏ các hình thức trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả, không giúp giải quyết thiếu hụt năng lượng hoặc chuyển đổi công bằng.
Quyết định COP28 cũng khuyến khích các quốc gia xây dựng và hoàn thành NDC lần thứ 2 (NDC2) cho giai đoạn 2025-2035 với mục tiêu giảm phát thải mạnh mẽ hơn cho tất cả các loại khí nhà kính, trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu 1,50C của Thỏa thuận Paris, có cân nhắc đến hoàn cảnh quốc gia khác nhau; đẩy nhanh triển khai các cơ chế thị trường và phi thị trường theo Điều 6 Thỏa thuận Paris nhằm hỗ trợ các quốc gia giảm phát thải khí nhà kính và thực hiện NDC.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Thượng đỉnh hành động khí hậu thế giới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về thích ứng với biến đổi khí hậu
Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của mục tiêu thích ứng toàn cầu, nỗ lực của các quốc gia đang phát triển xây dựng Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH, những khó khăn các nước này đang đối mặt trong tiếp cận nguồn lực hỗ trợ thực hiện thích ứng với BĐKH. Cần thiết lập và củng cố hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tác động của BĐKH và xây dựng dịch vụ khí hậu dễ tiếp cận, phù hợp mọi đối tượng sử dụng, bao gồm hệ thống cảnh báo sớm; kêu gọi thực hiện các hành động thích ứng khẩn cấp, mang tính chuyển đổi, phù hợp định hướng và điều kiện quốc gia; các quốc gia cần nộp Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu và Báo cáo thích ứng quốc gia cho Ban Thư ký Công ước (UNFCCC); cần thực hiện các hành động thích ứng nhằm đạt được các mục tiêu sau: (i) Giảm đáng kể tình trạng khan hiếm nước, tăng khả năng chống chịu khí hậu trước các hiểm họa liên quan đến nước; (ii) Sản xuất, cung cấp, phân phối lương thực và các sản phẩm nông nghiệp thích ứng và chống chịu khí hậu; (iii) Thích ứng với các tác động đến sức khỏe do BĐKH gây ra, thúc đẩy các dịch vụ y tế thích ứng với khí hậu và giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến khí hậu; (iv) Giảm tác động của BĐKH đến các hệ sinh thái và đa dạng sinh học, đẩy nhanh áp dụng các giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái và dựa vào tự nhiên; (v) Tăng cường khả năng chống chịu của cơ sở hạ tầng và khu vực định cư trước tác động của BĐKH; (vi) Giảm đáng kể các tác động tiêu cực của BĐKH đến xóa đói giảm nghèo và sinh kế người dân; (vii) Bảo vệ di sản văn hóa khỏi các rủi ro liên quan đến khí hậu.
Về tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực
Về tài chính: Hội nghị khẳng định khoảng cách ngày càng tăng giữa nhu cầu và nguồn lực tài chính cho ứng phó BĐKH, thực hiện NDC tại các quốc gia đang phát triển. Các nước đang phát triển còn gặp nhiều thách thức trong tiếp cận tài chính khí hậu. Cần xác định mục tiêu tài chính khí hậu mới nhằm thay thế cam kết hiện tại của các quốc gia phát triển huy động 100 tỷ USD mỗi năm đã được nêu tại COP15 để ưu tiên hỗ trợ các nước đang phát triển; ước tính cho đến năm 2030 cần khoảng 5,9 nghìn tỷ USD cho ứng phó BĐKH, trong đó nhu cầu cho thích ứng khoảng 215 - 387 tỷ USD/năm, nhu cầu đầu tư vào năng lượng sạch khoảng 4,3 nghìn tỷ USD/năm. Kêu gọi các nước phát triển sớm hoàn thành mục tiêu 100 tỷ USD mỗi năm và giữ mức đóng góp này đến năm 2025. Cần tập trung đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với BĐKH và đơn giản hóa thủ tục tiếp cận các nguồn tài chính khí hậu. Hội nghị ghi nhận vai trò của khu vực tư nhân và nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện để đạt được quy mô đầu tư cần thiết trong quá trình chuyển đổi toàn cầu hướng tới phát thải khí nhà kính thấp và phát triển thích ứng với BĐKH. Nhấn mạnh vai trò của các ngân hàng phát triển đa phương, các tổ chức tài chính khác đầu tư cho ứng phó BĐKH. Hội nghị cũng ghi nhận đóng góp 12.833 triệu USD từ 31 quốc gia cho Quỹ Khí hậu xanh, 792 triệu USD cho Quỹ thích ứng BĐKH, 187,7 triệu USD cho Quỹ các nước chậm phát triển, 179 triệu USD cho Quỹ đặc biệt về khí hậu, 700 triệu USD cho Quỹ Tổn thất và thiệt hại.
Về phát triển và chuyển giao công nghệ: Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong ứng phó với BĐKH, lưu ý sáng kiến Cơ chế công nghệ về trí tuệ nhân tạo cho hành động khí hậu. Thiết lập một chương trình triển khai công nghệ để tăng cường hỗ trợ cho việc triển khai các ưu tiên công nghệ ở các nước đang phát triển và giải quyết các thách thức. Các bên cần tháo gỡ những khó khăn, tăng cường hợp tác để thúc đẩy phát triển và chuyển giao công nghệ và đã quyết định thực hiện chương trình thúc đẩy chuyển giao công nghệ để đáp ứng nhu cầu của các nước đang phát triển. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự sẵn có và khả năng tiếp cận hỗ trợ tăng cường tài chính và xây dựng năng lực cho các nước đang phát triển thực hiện và nhân rộng các giải pháp công nghệ ưu tiên, bao gồm các biện pháp được xác định trong đánh giá nhu cầu công nghệ, kế hoạch hành động công nghệ và các chiến lược phát triển phát thải khí nhà kính thấp dài hạn phù hợp với điều kiện quốc gia.
Về tăng cường năng lực: Hội nghị khẳng định tầm quan trọng và đánh giá tích cực về tăng cường năng lực đạt được trong thời gian qua; tuy nhiên, còn khoảng cách lớn giữa nhu cầu và đáp ứng nhu cầu tăng cường năng lực của các quốc gia đang phát triển để thực hiện hiệu quả Thỏa thuận Paris, do đó cần tăng cường năng lực để giải quyết những khoảng cách và đáp ứng nhu cầu thiếu hụt thực hiện hiệu quả Thỏa thuận Paris. Kêu gọi các quốc gia đang phát triển xác định và đưa nhu cầu tăng cường năng lực vào báo cáo minh bạch hai năm một lần của mỗi quốc gia; yêu cầu cơ quan vận hành cơ chế tài chính và Quỹ thích ứng xem xét đáp ứng nhu cầu tăng cường năng lực của các nước đang phát triển.
Về tổn thất và thiệt hại
Đánh giá tầm quan trọng của việc ngăn chặn, giảm thiểu và giải quyết tổn thất và thiệt hại có liên quan đến những tác động bất lợi của BĐKH, bao gồm thời tiết cực đoan và vai trò của phát triển bền vững trong việc giảm nguy cơ mất mát và thiệt hại. Chính thức đưa vào vận hành Quỹ Tổn thất và thiệt hại, ghi nhận các nỗ lực quốc gia trong ứng phó với tổn thất và thiệt hại; BĐKH đã và sẽ ngày càng gây ra tổn thất và thiệt hại và khi nhiệt độ tăng, tác động của khí hậu và thời tiết cực đoan gây ra mối đe dọa xã hội, kinh tế và môi trường lớn hơn bao giờ hết. Các bên bày tỏ quan ngại sâu sắc về những tổn thất và thiệt hại đáng kể cả về kinh tế và phi kinh tế liên quan đến các tác động bất lợi của BĐKH đối với các nước đang phát triển, dẫn đến việc suy giảm không gian tài khóa và hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Do đó cần thúc đẩy việc gắn kết và bổ sung của các hành động và hỗ trợ thích ứng nhằm ngăn chặn, giảm thiểu và giải quyết tổn thất và thiệt hại do tác động của BĐKH. Trước yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu tài chính giải quyết tổn thất và thiệt hại do BĐKH ngày càng lớn, các bên và các tổ chức liên quan cần tăng cường gắn kết, phối hợp trong triển khai các hoạt động giảm thiểu rủi ro thiên tai, hỗ trợ nhân đạo, phục hồi và tái thiết, di dời, tái định cư và di cư nhằm ngăn chặn, giảm thiểu và giải quyết tổn thất và thiệt hại do tác động của BĐKH bảo đảm minh bạch và hiệu quả. Ban thư ký cần chuẩn bị thường xuyên báo cáo tổng hợp về thông tin về tổn thất và thiệt hại do các bên cung cấp trong các báo cáo minh bạch hai năm một lần hoặc tích hợp trong các báo cáo quốc gia khác theo Thỏa thuận Paris.
Về tác động của các biện pháp ứng phó
Việc tối đa hóa tác động tích cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực về kinh tế và xã hội trong thực hiện các biện pháp ứng phó là quan trọng trong việc thực hiện các biện pháp ứng phó. Cần chuyển đổi lực lượng lao động và tạo ra việc làm bền vững, việc làm có chất lượng và đa dạng hóa kinh tế là chìa khóa để tối đa hóa tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực của các biện pháp ứng phó, cần được thực hiện có tính đến điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia. Các bên cần xây dựng phương pháp và công cụ đánh giá, phân tích tác động nhằm giảm thiểu tiêu cực, phát huy những tác động tích cực khi thực hiện các biện pháp ứng phó Về định hướng thời gian tới: Hội nghị yêu cầu các bên sẽ gửi cho Ban Thư ký Công ước Báo cáo minh bạch hai năm một lần đầu tiên (BTR1) và báo cáo kiểm kê quốc gia nếu là báo cáo độc lập, trước ngày 31 tháng 12 năm 2024. Kêu gọi các bên tiếp tục thực hiện cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định cho giai đoạn 2025-2035 (NDC2), gửi cho Ban Thư ký Công ước trước COP30 tổ chức tháng 11 năm 2025. NDC2 cần phản ánh nỗ lực giải quyết những thiếu hụt được xác định trong báo cáo đánh giá nỗ lực toàn cầu lần thứ nhất. Hội nghị thống nhất thực hiện “Lộ trình đạt mục tiêu 1.5oC” để tăng cường hợp tác quốc tế, nâng tham vọng trong NDC2 phù hợp mục tiêu 1,5°C; quyết định thực hiện đánh giá nỗ lực toàn cầu lần thứ hai vào năm 2028.
Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ và Lãnh đạo các Bộ, ngành
Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP28 được các cơ quan truyền thông đưa tin đậm nét.
Thủ tướng Chính phủ đã cùng với trên 140 nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ tham dự và phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh hành động khí hậu thế giới; Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm G77 và Trung Quốc về biến đổi khí hậu, Tọa đàm về đẩy nhanh chuyển đổi điện than, Sự kiện ra mắt Nhóm đối tác về pin tích năng (BESS)… Thủ tướng Chính phủ có khoảng 40 hoạt động tại Hội nghị COP28, bao gồm khoảng 20 cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với Lãnh đạo cấp cao các nước, các đối tác quốc tế; qua đó thúc đẩy hợp tác nhiều mặt với các nước, đồng thời góp phần thúc đẩy giải quyết các quan tâm và lợi ích của Việt Nam. Tại COP28, Thủ tướng Chính phủ đã cùng Chủ tịch Ủy ban châu Âu, đại diện các đối tác trong và ngoài G7 công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) của Việt Nam thu hút sự quan tâm cao và cam kết ủng hộ của các nước, tổ chức quốc tế, tập đoàn lớn; đồng chủ trì sự kiện cấp cao “Huy động tài chính thực hiện cam kết của Việt Nam về ứng phó với BĐKH”; chứng kiến việc trao các văn kiện hợp tác giữa các cơ quan Việt Nam và các đối tác quốc tế về phát triển xanh gồm: Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam và Diễn đàn Kinh tế thế giới; Bản ghi nhớ hợp tác giữa ngân hàng BIDV và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng Standard Chartered và Tập đoàn SOVICO về tư vấn triển khai ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) và thu xếp nguồn vốn cho các dự án xanh; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng Standard Chartered và Green Solutions; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng Standard Chartered và GuarantCo; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng Standard Chartered và BIDV; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng VietinBank và Ngân hàng MUFG Nhật Bản; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ngân hàng Standard Chartered và Tập đoàn PAN; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Tập đoàn Honeywell Hoa Kỳ và The Green Solutions Việt Nam.
Lãnh đạo các Bộ, ngành đã có nhiều cuộc làm việc song phương với các đối tác. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã làm việc và ký Bản ghi nhớ hợp tác về môi trường và khí hậu với Bộ trưởng Bộ Biến đổi khí hậu và Môi trường UAE và làm việc song phương với các đối tác: Bộ trưởng Bộ Môi trường và Biến đổi khí hậu Canada về thúc đẩy hợp tác toàn diện về môi trường và khí hậu; Giám đốc toàn cầu về phát triển thị trường các-bon, Ngân hàng Standard Chartered đồng sáng lập Sàn giao dịch tín chỉ các-bon CIX, thống nhất nhiều nội dung hợp tác về phát triển thị trường các-bon; Tổng Giám đốc Cơ quan Phát triển Hà Lan nhằm thúc đẩy hợp tác thích ứng với BĐKH dựa trên các giải pháp tự nhiên; Tổng giám đốc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH, đa dạng sinh học, quản lý rác thải nhựa đại dương và kinh tế tuần hoàn; Phó Chủ tịch phụ trách khu vực châu Á Liên minh Năng lượng vì hành tinh và con người (GEAPP) về hợp tác thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng tại Việt Nam; Giám đốc điều hành Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) Vương quốc Anh, Phó Chủ tịch cấp cao về BĐKH WWF Hoa Kỳ; Giám đốc cấp cao về quan hệ đối tác doanh nghiệp WWF Đan Mạch và Giám đốc điều hành WWF Việt Nam về các nội dung triển khai các giải pháp dựa vào tự nhiên (NBS), đàm phán tham gia Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa và các chương trình quản lý ô nhiễm nhựa, triển khai Luật Tài nguyên nước sửa đổi cùng các chương trình liên quan Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học; Tổng Giám đốc Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế về hỗ trợ Việt Nam tiếp cận nguồn tài chính thực hiện các dự án chuyển đổi quy mô lớn và bảo đảm sinh kế cho người dân, hợp tác hỗ trợ Việt Nam về quản lý lưu vực sông, bảo đảm an ninh nguồn nước; trao đổi với Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới về phát triển dự án, Giám đốc Trung tâm ASEAN về đa dạng sinh học.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham dự Phiên họp thông qua Tuyên bố Emirates về nông nghiệp bền vững, hệ thống lương thực thực phẩm có khả năng chống chịu và hành động vì khí hậu; giới thiệu Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long của Vệt Nam; ký Bản ghi nhớ hợp tác tăng cường hợp tác về đa dạng lương thực với Bộ Biến đổi khí hậu và Môi trường UAE nhằm tăng cường hợp tác, khuyến khích khu vực tư nhân hai nước đầu tư phát triển nông nghiệp và thủy sản.
Lãnh đạo Bộ Y tế tham dự Hội nghị cấp Bộ trưởng về khí hậu và sức khoẻ, Ngày Sức khỏe của COP28 nhằm kêu gọi đồng thuận về các hành động ưu tiên trong xây dựng hệ thống y tế có khả năng ứng phó với BĐKH cùng với các cam kết tài chính để thực hiện; tham dự Ngày Liên minh hành động chuyển đổi về sức khỏe và khí hậu do WHO khởi xướng, tập trung vào việc xây dựng khả năng phục hồi khí hậu và điều chỉnh các hệ thống y tế để thích ứng với các tác động và mối đe dọa hiện tại, mới nổi và trong tương lai do BĐKH gây ra; đồng chủ trì với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc và Tổ chức Y tế thế giới Hội thảo xây dựng hệ thống y tế thích ứng với BĐKH ở Việt Nam nhằm tích hợp khả năng thích ứng với BĐKH vào hoạt động chăm sóc sức khỏe, những nỗ lực của Việt Nam trong việc phát triển hệ thống y tế và cộng đồng chống chịu với BĐKH.
Lãnh đạo các Bộ, Lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty và các doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực tham gia và có ý kiến tại các sự kiện trong khuôn khổ COP28 nhằm mở rộng các cơ hội hợp tác, thu hút đầu tư vào Việt Nam thực hiện các dự án ứng phó với BĐKH và chuyển đổi năng lượng công bằng, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Hoạt động của Đoàn đàm phán cấp kỹ thuật
Để chuẩn bị kỹ lượng các nội dung tham dự Hội nghị, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã sớm tổ chức cuộc họp với thành viên thuộc các Bộ tham gia đoàn đàm phán cấp kỹ thuật để trao đổi cập nhật thông tin về mục tiêu, nội dung của Hội nghị, thống nhất chủ trương, quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, tăng cường hợp tác với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với BĐKH toàn cầu.
Đoàn kỹ thuật đã có những đóng góp cụ thể, kịp thời vào các điều khoản của dự thảo Quyết định COP28, đưa ra một số đề xuất với các điều khoản quan trọng liên quan trực tiếp tới lợi ích quốc gia thông qua việc nêu ý kiến tại các cuộc họp Nhóm G77 và Trung Quốc, Nhóm các quốc gia đang phát triển có đồng quan điểm (LMDC). Các nhóm này đã thành công trong việc làm mềm hóa quy định về giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí…), tăng gấp ba công suất năng lượng tái tạo từ bắt buộc như đề xuất ban đầu của EU sang hình thức kêu gọi các quốc gia thực hiện. Các vấn đề bảo đảm công bằng, công lý theo nguyên tắc của Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH trong thực hiện ứng phó với BĐKH cũng đã được đưa vào nhiều nội dung quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, các nhóm này chưa thành công trong việc thúc đẩy các quốc gia phát triển đi đầu, chịu trách nhiệm chính trong giảm phát thải và đưa ra mục tiêu dài hạn về tài chính cho giai đoạn từ 2025; chưa tìm được tiếng nói chung trong một số vấn đề như thời điểm loại bỏ hoàn toàn năng lượng hóa thạch, tiêu chí sử dụng Quỹ Tổn thất và thiệt hại.
Các thành viên đoàn kỹ thuật có một số cuộc làm việc song phương, bao gồm: trao đổi với tổ chức Sáng kiến khí hậu quốc tế (IKI), Văn phòng Đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ về BĐKH về các nỗ lực ứng phó với BĐKH; làm việc với đại diện Nhóm các đối tác quốc tế (IPG) về các công việc cần thực hiện sau công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện JETP; thảo luận Đối tác thực hiện NDC về hỗ trợ Ban Thư ký JETP; trao đổi với đại diện Liên minh thời trang hành động vì khí hậu; làm việc với Giám đốc điều hành Tổ chức Tăng cường tài chính lâm nghiệp, với Giám đốc Ban Thư ký Đối tác của các nhà Lãnh đạo về rừng và khí hậu để triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất, với Bộ Nông nghiệp Nhật Bản về giảm phát thải trong canh tác lúa nước... Phối hợp với Climate Eat và Grow Asia tổ chức phiên họp chính thức bên lề về “Tương lai hệ thống lương thực thực phẩm bền vững”. Tham dự và trình bày tại các phiên họp bên lề về Cơ chế tín chỉ chung (JCM), Chuyển đổi năng lượng công bằng có yếu tố giới do UN Women tổ chức; tham dự các sự kiện tài chính cho quá trình chuyển đổi ngành nông nghiệp, hành động quốc gia cho khí hậu và thực phẩm. Làm việc với Quỹ Khí hậu xanh (GCF) về các dự án hỗ trợ hoạt động thích ứng và giảm thiểu BĐKH của Việt Nam. Làm việc với Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) về các dự án hợp tác vùng về chuyển dịch năng lượng và tăng trưởng xanh với các nước như Phần Lan, Na Uy, Colombia, Indonesia và khả năng hợp tác với KOICA trong các dự án hỗ trợ Việt Nam có sự tham gia của GGGI. Làm việc với Phó Giám đốc khu vực Châu Á của Liên minh năng lượng toàn cầu vì con người (GEAAP) về các nội dung hợp tác thúc đẩy chuyển đổi xanh và huy động nguồn lực khí hậu xanh cho chuyển đổi công bằng. Tham dự sự kiện công bố “Sáng kiến đối tác cơ sở hạ tầng Copenhagen”, thảo luận đối tác SE4All và cuộc họp tham vấn kỹ thuật về “Thúc đẩy yếu tố con người - hướng chuyển dịch năng lượng tích cực ở Ấn Độ và thế giới”.
Đoàn Việt Nam đã tổ chức thành công chuỗi sự kiện bên lề tại Phòng sự kiện bên lề của Việt Nam (Việt Nam Pavilion)
Chuỗi sự kiện bên lề tại Phòng sự kiện bên lề của Việt Nam (Việt Nam Pavilion) bao gồm: (i) Thúc đẩy triển khai Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn đến năm 2030 của Việt Nam hướng tới mục tiêu thích ứng toàn cầu; (ii) Đối thoại kinh nghiệm về quản lý phát thải khí nhà kính cấp cơ sở; (iii) Giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH - kinh nghiệm quốc tế trong triển khai Kế hoạch thích ứng quốc gia (NAP); (iv) Vai trò của các tổ chức tài chính trong việc thúc đẩy tài chính tăng tốc thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 ở Việt Nam; (v) Huy động tài chính cho các giải pháp dựa vào thiên nhiên; (vi) Tác động của Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon của EU đối với quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam và những tác động trong khu vực; (vii) Thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam: Vai trò của thị trường cácbon và cơ chế trao đổi bù trừ tín chỉ; (viii) Xây dựng hệ thống y tế thích ứng với khí hậu ở Việt Nam; (ix) Chuyển đổi xanh trong giao thông vận tải đường bộ; (x) Nông nghiệp bền vững và chuyển đổi hệ thống thực phẩm; (xi) Huy động nguồn lực tài chính khí hậu, nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ thích ứng với BĐKH; (xii) Chuyển đổi năng lượng hướng tới net-zero - Nỗ lực và hành động của các bên; (xiii) Đối thoại chuyển đổi xanh và sự tham gia doanh nghiệp thực hiện cam kết netzero của Việt Nam; (xiv) Xây dựng báo cáo Triển vọng năng lượng mới của Việt Nam; (xv) Vai trò của thanh niên trong chuyển đổi năng lượng công bằng và giáo dục khí hậu tại Việt Nam; (xvi) Tương lai năng lượng ở Đông Nam Á: Phát huy tiềm năng điện gió; (xvii) Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng ở Đông Nam Á: Xây dựng năng lực và phát triển quan hệ đối tác vì năng lượng sạch; (xviii) Vai trò của việc sử dụng hiệu quả năng lượng trong làm mát để đẩy mạnh việc khử các-bon tại Việt Nam; (xix) Tác động của BĐKH tại các đồng bằng ở châu Á: Tìm kiếm những giải pháp chung; (xx) Tăng cường thu giữ các bon xanh từ quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên biển và ven biển; (xxi) Thích ứng dựa vào tự nhiên: Hướng đến các mục tiêu khí hậu và nông nghiệp bền vững ở Việt Nam; (xxii) Nhu cầu huy động tài chính cho năng lượng tái tạo tại Việt Nam…
Các sáng kiến Việt Nam ủng hộ, tham gia tại Hội nghị COP28
Cam kết làm mát toàn cầu là sáng kiến do Chủ tịch COP28 của UAE đề xuất. Các tổ chức hỗ trợ là Liên minh tăng cường hiệu quả làm mát - UNEP và các đối tác gồm Sáng kiến năng lượng bền vững cho tất cả (SEforALL) và Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA). Theo mục tiêu đề ra, lĩnh vực làm mát toàn cầu phải giảm ít nhất 68% phát thải khí nhà kính vào năm 2050 so với năm 2022, nhằm đóng góp thực hiện giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C và phù hợp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng toàn cầu bằng 0 đến năm 2050.
Sáng kiến quốc tế “Đối tác triển khai Điều 6 Thỏa thuận Paris (A6IP)” được Bộ trưởng Bộ Môi trường Nhật Bản Nishimura Akihiro khởi xướng ngày 16/11/2022 trong khuôn khổ Hội nghị COP27. Mục tiêu của Sáng kiến nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thúc đẩy triển khai Điều 6 Thỏa thuận Paris thông qua các hoạt động về tăng cường năng lực cho các bên, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ các bên thực hiện các nội dung trong phạm vi Điều 6 của Thỏa thuận Paris. Sáng kiến tập trung vào 06 nhóm hoạt động trọng tâm gồm: Tăng cường nhận thức về các quy định của Điều 6 và mối liên kết với NDC; chia sẻ kinh nghiệm về sắp xếp thể chế thực hiện Điều 6; thiết lập kênh thông tin tổng hợp tình hình triển khai Điều 6; tổ chức các khóa đào tạo về xây dựng báo cáo và rà soát triển khai Điều 6; hỗ trợ xác định phương pháp luận xây dựng đường phát thải cơ sở và hỗ trợ thiết kế thị trường các-bon có tính toàn vẹn môi trường.
Tuyên bố Emirates về nông nghiệp bền vững, hệ thống lương thực thực phẩm có khả năng chống chịu và hành động vì khí hậu. Tuyên bố đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nông nghiệp và các hệ thống lương thực thực phẩm cũng như tiềm năng to lớn trong việc góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và tạo sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia, việc lồng ghép nông nghiệp và hệ thống lương thực thực phẩm vào các hành động vì khí hậu là cần thiết để ứng phó với các yêu cầu cấp bách của biến đổi khí hậu và tối đa hóa lợi ích về khí hậu và môi trường, đồng thời giảm thiểu tác động bất lợi đến nông nghiệp và hệ thống lương thực thực phẩm.
Tuyên bố cấp Bộ trưởng về khí hậu và sức khỏe được Tổ chức Y tế thế giới và nước chủ nhà UAE đưa ra nhằm thúc đẩy triển khai các hành động ưu tiên trong việc xây dựng hệ thống y tế có khả năng thích ứng với BĐKH. Việt Nam là một trong 152 quốc gia đã ủng hộ Tuyên bố này nhằm triển khai thực hiện các hành động giảm thiểu những tác động trực tiếp và gián tiếp của BĐKH đối với sức khỏe của người dân.
Khoảng cách giữa thực hiện và kỳ vọng
COP28 là Hội nghị toàn cầu về BĐKH lớn nhất từ trước tới nay với sự tham gia lớn nhất về số lượng nguyên thủ, người đứng đầu chính phủ và đại biểu từ các quốc gia, tổ chức quốc tế. Việc các bên thông qua quyết định về kết quả đánh giá nỗ lực toàn cầu (GST) lần thứ nhất và Quỹ Tổn thất và thiệt hại đi vào vận hành đã tiến thêm một bước trong tiến trình thực hiện Thỏa thuận Paris.
Các quốc gia thống nhất kêu gọi các bên giảm dần phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch cho thấy quyết tâm hành động mạnh mẽ hơn nữa của cộng đồng quốc tế để ứng phó với BĐKH và chuyển đổi năng lượng. Tuy nội dung này hiện không mang tính chất bắt buộc nhưng đã phát tín hiệu cho các quốc gia, nhà đầu tư chuyển nhanh sang phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng không phát thải hoặc ít phát thải, hạn chế đầu tư phát triển năng lượng có nguồn gốc hóa thạch. Qua nhiều vòng đàm phán, Hội nghị không thống nhất được việc xóa bỏ sử dụng nhiên liệu hóa thạch nói chung mà chỉ giảm dần điện than không sử dụng công nghệ thu giữ cácbon. Điều này cho thấy sự khác biệt lớn trong quan điểm của các nước về sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là sự phản đối mạnh của các nước khai thác, xuất khẩu và đang sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch, gồm Nga, Trung Quốc, các nước thuộc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), các nước thuộc Nhóm đồng quan điểm (LMDC) do một số nước phát triển vẫn tiếp tục khai thác nhiên liệu hóa thạch. Đây là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy khai thác tiềm năng về năng lượng gió, năng lượng mặt trời và nghiên cứu phát triển điện hạt nhân.
Khoảng cách giữa thực hiện và kỳ vọng từ các nước phát triển vẫn còn lớn, đặc biệt trong trách nhiệm giảm phát thải cũng như cam kết hỗ trợ tài chính và công nghệ phục vụ ứng phó với BĐKH và chuyển đổi năng lượng. Hiện còn thiếu các cam kết của một số nước phát thải lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và Nga là các quốc gia chưa cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) trong bối cảnh NDC hiện tại không đủ để thu hẹp khoảng cách giữa lượng phát thải dự kiến và mức cần thiết để giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C.Nhu cầu của các nước đang phát triển cần khoảng 4 đến 5 nghìn tỷ USD mỗi năm cho ứng phó với BĐKH, trong khi cam kết 100 tỷ USD mỗi năm từ các nước phát triển tuy chỉ đáp ứng được 2% nhu cầu nhưng vẫn chưa chắc chắn đạt được và chưa đưa ra được mục tiêu đóng góp từ năm 2025 trở đi. Trong khi đó hơn 450 ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và các công ty tài chính (quản lý vốn tới 130 nghìn tỷ USD) đã cam kết sử dụng quỹ của họ để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việc huy động nguồn lực để thực hiện các cam kết ngày càng khó khăn. Mục tiêu huy động 100 tỷ USD/năm tuy đã được gia hạn đến 2025 nhưng việc thực hiện cũng còn nhiều thách thức do các quốc gia phát triển cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn kinh tế nội tại để bố trí cho các hành động khí hậu tại chính quốc gia mình. Do vậy, trên các diễn đàn, định hướng tiếp cận vay thị trường, tiếp cận các khoản vay và yêu cầu các quốc gia phải vay, dám chấp nhận rủi ro thị trường để khơi thông các dòng vốn thực hiện hành động khí hậu. Đây là vấn đề cần lưu ý để chủ động, tận dụng được cơ hội nhưng không bị cuốn theo xu thế không có lợi cho quốc gia, tránh rơi vào bẫy nợ với các khoản vay thiếu ưu đãi.
Hội nghị nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải đẩy nhanh việc thực hiện các biện pháp giảm nhẹ trong nước phù hợp với khoản 2 Điều 4 Thỏa thuận Paris và sử dụng hợp tác trao đổi tín chỉ các-bon tự nguyện theo Điều 6 Thỏa thuận Paris để thúc đẩy nỗ lực giảm nhẹ của các quốc gia. Tuy nhiên, việc đàm phán các quy định hướng dẫn triển khai Điều 6 còn chưa đạt được sự thống nhất, đặc biệt về nội dung phê duyệt chuyển giao tín chỉ các-bon giữa các quốc gia và hướng dẫn về phương pháp luận cho các hoạt động khử các-bon. Các quốc gia dự kiến sẽ đẩy mạnh các hoạt động hợp tác trao đổi thí điểm nhưng sẽ phải đối mặt với những rủi ro có thể sẽ không phù hợp với các quy định trong tương lai. Hội nghị thống nhất các nội dung về hợp tác, tiếp cận phi thị trường theo Điều 6, góp phần thúc đẩy trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về giảm nhẹ, thích ứng, tài chính, chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực giữa các quốc gia.
Các nỗ lực ứng phó với BĐKH và những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với BĐKH. Việc đạt được thỏa thuận và công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố JETP với các nước trong và ngoài G7 là cơ hội để Việt Nam tận dụng huy động nguồn lực từ các nước phát triển và khai thông nguồn đầu tư doanh nghiệp thúc đẩy phát triển đất nước, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Trên cơ sở kết quả tham gia Hội nghị COP28, Bộ Tài nguyên và Môi trường kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo:
Các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, đặc biệt là các Nhóm công tác hỗ trợ triển khai thực hiện JETP khẩn trương làm việc với Nhóm các đối tác quốc tế, GFANZ để lựa chọn các dự án cần triển khai ngay theo Đề án triển khai Tuyên bố JETP và Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện JETP; giám sát và đánh giá việc thực hiện, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Tài nguyên và Môi trường: Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan và các địa phương triển khai thực hiện Cam kết làm mát toàn cầu; Đối tác triển khai Điều 6 Thỏa thuận Paris (A6IP) tại Việt Nam.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng và các cơ quan liên quan tập trung đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định cập nhật năm 2022; tổ chức xây dựng Đóng góp do quốc gia tự quyết định lần thứ hai (NDC2) cho giai đoạn 2025-2035, hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trước Hội nghị COP30 năm 2025; khai thác hiệu quả nguồn hỗ trợ của Quỹ Thích ứng, Quỹ Tổn thất và thiệt hại để thực hiện các mục tiêu thích ứng với BĐKH; hoàn thành thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương tham gia Câu lạc bộ khí hậu do Cộng hòa Liên bang Đức khởi xướng để tận dụng hỗ trợ không hoàn lại từ Chính phủ Đức; cập nhật nội dung chuẩn bị họp lần thứ 5 của Ban chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.
Bộ Công Thương chủ trì, phối với các Bộ, ngành nghiên cứu khả năng triển khai các hoạt động về hiệu quả năng lượng góp phần thực hiện quyết định của Hội nghị COP28 về đánh giá nỗ lực toàn cầu.
Bộ Giao thông vận tải chủ trì thúc đẩy các hoạt động giảm phát thải từ vận tải đường bộ thông qua phát triển cơ sở hạ tầng và triển khai nhanh các phương tiện không phát thải và phát thải thấp; thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô, mô tô, xe gắn máy chuyển sang sản xuất, lắp ráp phương tiện không phát thải và phát thải thấp.
Bộ Xây dựng chủ trì thúc đẩy các hoạt động giảm phát thải trong xây dựng công trình, sản xuất vật liệu xây dựng và quy hoạch, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhà ở thích ứng với BĐKH.
Bộ Ngoại giao phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong triển khai các sáng kiến mà Việt Nam đã tham gia tại COP28; tiếp tục thông qua các kênh ngoại giao huy động nguồn lực quốc tế hỗ trợ Việt Nam trong ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng công bằng và thực hiện các cam kết quốc tế về BĐKH.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tiếp cận Quỹ IKI, Quỹ Khí hậu xanh và các Quỹ khác huy động nguồn lực triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ trì xác định tiềm năng trao đổi tín chỉ các-bon rừng và lượng giảm phát thải, hấp thụ các-bon từ rừng của các địa phương làm căn cứ đề xuất trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ các-bon rừng với các đối tác quốc tế; xây dựng tiêu chuẩn và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định hấp thụ các-bon rừng Việt Nam để tham gia thị trường các-bon trong nước và quốc tế.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan và các địa phương triển khai thực hiện Tuyên bố Emirates về Nông nghiệp bền vững, Hệ thống lương thực thực phẩm có khả năng chống chịu và Hành động vì khí hậu, Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương chuẩn bị, đàm phán, ký kết và triển khai “Thỏa thuận mua bán giảm phát thải từ rừng vùng Tây nguyên và Nam trung Bộ” với Tổ chức LEAF/Emergent, bảo đảm việc thực hiện mục tiêu giảm phát thải theo NDC; xây dựng phương án quản lý, sử dụng kết quả giảm phát thải còn lại từ Báo cáo kỳ 1 của Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) ký kết với WB và hoàn thiện các thủ tục cần thiết để tiếp nhận, quản lý và sử dụng nguồn thu còn lại từ ERPA.